Image
Loading

 

Dân tộc Nùng có hơn 1.083.298 người (theo kết quả điều tra dân số năm 2019), di cư từ Trung Quốc vào Việt Nam khoảng 200 năm nay. Họ có mặt ở cả 63 tỉnh, thành phố trong cả nước nhưng cư trú tập trung ở các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc như: Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Bắc Giang, Tuyên Quang... Từ năm 1986 đến nay, hơn 10% dân số người Nùng đã di cư vào các tỉnh Tây Nguyên, chủ yếu tại Đắk Lắk. Ngoài ra, họ còn có mặt ở khu vực Đông Nam Bộ (hơn 5%). Người Nùng có nhiều nhóm địa phương: Nùng An, Nùng Cháo, Nùng Lòi, Nùng Inh, Nùng Phàn Slình, Nùng Dín... Họ xen cư với người Tày, nói ngôn ngữ Tày - Thái (thuộc ngữ hệ Thái - Kađai), đồng thời có quan hệ gần gũi với người Tày và người Choang ở Trung Quốc.

Lúa nước là cây trồng truyền thống của người Nùng, được trồng ở những vùng đất tương đối bằng phẳng. Trên những diện tích đất dốc, đất đồi - nơi không có điều kiện khai phá ruộng nước, họ trồng lúa nương, ngô và các loại củ, bầu, bí, rau xanh. Tri thức canh tác nông nghiệp của người Nùng được thể hiện qua kinh nghiệm xác định thời vụ, chọn đất, chọn giống lúa và tạo dựng hệ thống tưới tiêu. Ngoài cây lương thực, cây hồi (mác chác) và các sản phẩm từ hồi cùng nhiều loại cây có giá trị cao khác như: thuốc lá, trẩu, sở, chè, mía, tre, trám, bông, chàm... cũng có vị trí quan trọng trong hoạt động kinh tế của người Nùng và đến nay vẫn mang lại thu nhập giúp nâng cao đời sống cho người dân. Chăn nuôi ở người Nùng cũng khá phát triển: chăn nuôi trâu, bò, ngựa lấy sức kéo và phân bón cho trồng trọt; chăn nuôi lợn, gà, vịt, ngan, ngỗng, ong, tằm, cá... góp phần tiêu thụ sản phẩm của trồng trọt và dùng làm vật cúng trong các nghi lễ. Người Nùng biết nhiều nghề thủ công: dệt, rèn, đúc, đan lát, đồ gỗ, hương, ngói âm dương... Hiện nay, một số nghề có xu hướng mai một dần (dệt), một số nghề khác được duy trì và phát triển (rèn). Chợ khá phát triển, người ta thường đi chợ phiên để mua bán các sản phẩm cần thiết cho đời sống sinh hoạt và sản xuất.

Đời sống xã hội của người Nùng nhìn chung chịu nhiều ảnh hưởng của Nho giáo. Người Nùng theo chế độ gia đình phụ hệ; một số nơi vẫn còn dấu vết hình thức gia đình lớn. Đứng đầu gia đình là người chồng/người cha, có quyền quyết định các công việc trong nhà. Tổ chức dòng họ của người Nùng có nơi chặt chẽ, có nơi lại lỏng lẻo song vẫn được duy trì, tôn trọng dù vai trò của trưởng họ, trưởng tộc mờ nhạt. Việc duy trì hội hiếu trong đời sống xã hội thể hiện sự cố kết, tương trợ cộng đồng không chỉ giữa người Nùng với nhau mà còn với những dân tộc cộng cư.  

Kiến trúc nhà ở truyền thống của người Nùng là nhà sàn, lợp ngói máng, có ba tầng: tầng 1 là sàn dành cho gia cầm, gia súc, công cụ sản xuất; tầng 2 là sàn dành cho người ở và đồ dùng sinh hoạt; tầng 3 là gác làm kho chứa lương thực; cạnh nhà thường có vườn trồng rau xanh. Ở một số vùng, người Nùng làm nhà trình tường, lợp ngói âm dương. Làng bản thường được dựng ở chân núi, gần nguồn nước để thuận tiện cho canh tác ruộng, nương. Kiểu làng phòng thủ và nhà “lô cốt” có thể thấy ở nơi người Nùng cư trú gần biên giới Việt - Trung. Trang phục truyền thống của người Nùng khá đơn giản, mỗi nhóm Nùng lại có nét riêng song thông thường đều được làm bằng vải bông tự dệt, nhuộm chàm, không có hoa văn trang trí. Nam giới mặc áo cổ đứng, xẻ ngực, có hàng cúc vải, đội mũ vải. Phụ nữ mặc áo năm thân dài quá hông, cài cúc bên nách phải, đầu đội khăn vuông, chít kiểu mỏ quạ. Ngày nay, họ không mặc trang phục truyền thống trong sinh hoạt hằng ngày mà thường chỉ mặc vào các dịp lễ, Tết.

Vào một số dịp quan trọng, người Nùng tổ chức lễ then để cầu mong sức khỏe, bình an, giải hạn, then cấp sắc cho thầy cúng... Nét độc đáo của then là hành nghề với nội dung tín ngưỡng thông qua hình thức văn nghệ dân gian. Bởi vậy, lễ then cũng là dịp người dân thưởng thức lời hát then và tiếng đàn tính. Bên cạnh đó, sli cũng là hình thức dân ca đặc trưng thường được hát trong các dịp vào nhà mới, mừng đám cưới.

Tại khu trưng bày thường xuyên của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, hiện vật của dân tộc Nùng được giới thiệu trong trưng bày về các dân tộc nói ngôn ngữ Tày - Thái ở tầng 2 của tòa nhà Trống đồng. Các thông tin về hiện vật và bài viết đều được thể hiện bằng ba ngôn ngữ: Việt, Pháp và Anh.

Người viết: Vũ Phương Nga
Ảnh: BTDTHVN