Image
Loading

Dân tộc Bố Y còn có các tên gọi khác là Chủng Chá, Trọng Gia... với hai nhóm địa phương là nhóm Bố Y (tên tự gọi là Pu Y) ở tỉnh Hà Giang và nhóm Tu Dí ở tỉnh Lào Cai. Theo kết quả điều tra dân số năm 2019, dân tộc Bố Y có 3.232 người, là một trong 16 dân tộc rất ít người ở Việt Nam. Họ nói ngôn ngữ Tày - Thái (thuộc ngữ hệ Thái - Kađai).

Người Bố Y có truyền thống làm ruộng nước và có trình độ canh tác nông nghiệp khá cao. Tuy nhiên, do cư trú ở vùng núi nên họ kết hợp với trồng trọt trên nương rẫy; trong đó, ngô là cây trồng chính. Hiện nay, rừng đã được giao cho các hộ gia đình chăm sóc và bảo vệ nên người Bố Y không còn canh tác theo lối quảng canh như trước, thay vào đó là thâm canh, xen canh và đa canh. Ở huyện Mường Khương (tỉnh Lào Cai), ngoài trồng lúa, ngô, sắn..., họ còn trồng ớt, chè, thuốc lá, mía, đậu tương. Người Bố Y cũng phát triển chăn nuôi gia cầm, đặc biệt là gà (được dùng làm một trong các lễ vật cúng không thể thiếu trong các dịp lễ, tết); hình thức chăn nuôi chủ yếu là thả rông. Bên cạnh nông nghiệp, nhiều nghề thủ công như dệt, đan lát, mộc, rèn, nấu rượu ngô cũng được người Bố Y duy trì cho đến hiện nay. Săn bắn là hoạt động của nam giới Bố Y để bảo vệ mùa màng, trước đây còn nhằm cung cấp thêm thực phẩm cho đời sống hằng ngày. Sau này, trong hoạt động sinh kế của người Bố Y, còn có thêm buôn bán và làm thuê (khai thác rừng và/hoặc quặng...).

Nhà mái lá và tường đất của người Bố Y 
(Quản Bạ, Hà Giang, 1996)

 

Nhà mái ngói, vách bằng phên tre đan của người Tu Dí (Mường Khương, Lào Cai, 1998)

Dưới chế độ phong kiến, người Bố Y chịu sự quản lý của bộ máy hành chính cũ; lý trưởng, chánh tổng và phó tổng đều là người thuộc các dân tộc cộng cư được cho là có địa vị cao hơn như Nùng, Tày, Hmông, Dao. Dưới tổng là các làng; đứng đầu làng thường là thầy cúng biết chữ Nho, có uy tín và am hiểu phong tục, tập quán. Hiện nay, mặc dù thôn của người Bố Y vận hành theo hệ thống chính trị cơ sở với sự đứng đầu của trưởng thôn phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội cấp thôn (Chi hội Hội Cựu chiến binh, Chi hội Hội Phụ nữ, Chi đoàn Đoàn Thanh niên…), nhưng vai trò của thầy cúng, người già có uy tín vẫn được coi trọng trong xã hội của người Bố Y.

Người Bố Y đã định cư từ nhiều đời trong những làng bản được xây dựng gần nguồn nước để thuận tiện cho sinh hoạt và canh tác nông nghiệp. Hầu hết công trình dân dụng của người Bố Y đều kiên cố. Nhà truyền thống của họ là nhà trình tường, lợp ngói âm dương (ngói mảng) hoặc ngói gỗ. Tuy nhiên, những ngôi nhà theo kiến trúc truyền thống của người Bố Y hiện còn rất ít, thay vào đó là nhà xây bằng gạch giống nhà người Kinh.

Người Bố Y theo chế độ phụ hệ, đàn ông là người quyết định những vấn đề quan trọng của gia đình như: hôn nhân, dựng nhà, ma chay, cúng bái... Trước đây, gia đình của người Bố Y thường có ba, bốn thế hệ cùng chung sống, đàn ông là lao động chính. Hiện nay, các đôi vợ chồng trẻ thường tách ra ở riêng sau khi kết hôn, hình thành nên các gia đình hạt nhân. Phụ nữ cũng bình đẳng hơn trong lao động và sinh hoạt, đóng góp đáng kể vào nguồn thu nhập của gia đình và có cơ hội tham gia tiếng nói của mình trong các hoạt động cộng đồng.

 

Trang phục truyền thống của nam giới Bố Y là áo cánh ngắn, tứ thân, cổ viền; quần nhuộm chàm bằng vải tự dệt. Trước đây, phụ nữ mặc váy xòe như váy của phụ nữ Hmông, được trang trí bằng hoa văn sáp ong nhuộm chàm; áo ngắn 5 thân có ống tay rời; trang sức bằng bạc gồm dây chuyền, vòng tay, khuyên tai; tóc được búi ngược lên đỉnh đầu, đội khăn chàm có thêu hoa văn bằng chỉ màu. Ngày nay, một số người Bố Y mặc giống người Nùng ở cùng địa phương, phụ nữ nhóm Tu Dí ăn mặc theo kiểu người Hán nhưng áo có ống tay rời; còn đa phần đã chuyển sang mặc Âu phục.

Người Bố Y tin vào “vạn vật hữu linh”. Ngoài thờ cúng tổ tiên, họ còn thờ cúng các thần linh như: thần Nông, thần Cửa... Hằng năm, người Bố Y có các lễ tết như: Tết Nguyên đán, tết Thanh minh, tết mùng 6 tháng Sáu, Rằm tháng Bảy, tết cơm mới... Trong những dịp này, họ thường làm xôi nếp nhuộm đỏ, bánh dày, bánh chưng, bánh chay... để cúng tổ tiên, trời đất, cầu cho mưa thuận gió hòa, con người khỏe mạnh, mùa màng tươi tốt, bội thu. Vào dịp hội hè, người Bố Y chơi các trò dân gian như: tung còn, đánh yến, đánh khăng.

Tại khu trưng bày thường xuyên của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, hiện vật của dân tộc Bố Y được giới thiệu trong trưng bày về các dân tộc nói ngôn ngữ Tày - Thái ở tầng 2 của tòa nhà Trống đồng. Các thông tin về hiện vật và bài viết đều được thể hiện bằng ba ngôn ngữ: Việt, Pháp và Anh.

Người viết: Vũ Phương Nga

Ảnh: BTDTHVN