Image
Loading

Người Thái ở Việt Nam tự gọi mình là Tay hoặc Thay. Họ còn có nhiều tên gọi khác nhau tùy theo vùng như Thái Đen (Tày Đăm), Thái Trắng (Tày Khao), Thái Đỏ (Tày Đeng), Tày Thanh (Man Thanh), Tày Mười, Tày Mường (Hàng Tổng), Tày Khăng. Người Thái thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Kađai), là tộc người có dân số lớn thứ ba trong 53 dân tộc thiểu số tại Việt Nam, với hơn 1,8 triệu người (theo kết quả điều tra dân số năm 2019). Họ sinh sống tập trung tại các tỉnh: Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Yên Bái và ở phía tây của hai tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An.

Trang phục truyền thống của phụ nữ Thái (nhóm Tày Khăng)
ở bản Nậm Dẻ, xã Nậm Cắn, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An, 2023. 
nh: Đinh Thu Hương

 Người Thái thường chọn khu vực gần sông, suối, các thung lũng để định cư. Họ sớm có nghề trồng lúa nước với hệ thống thuỷ lợi mương, phai, lái, lịn (khơi mương, đắp đập, dẫn nước qua vật chướng ngại, đặt máng) trên các cánh đồng. Đây là hoạt động kinh tế chính và là nguồn cung cấp lương thực chủ yếu của người Thái. Bên cạnh trồng trọt, họ còn chăn nuôi gia súc (trâu, bò, lợn) và gia cầm (gà) để phục vụ nhu cầu của gia đình và trao đổi, mua bán. Trong đời sống kinh tế của người Thái, một số nghề thủ công truyền thống như dệt, đan lát cũng đóng vai trò quan trọng, đặc biệt là các sản phẩm vải, thổ cẩm được dệt từ bông để phục vụ may mặc trong gia đình và trao đổi tại các phiên chợ. Đặc biệt, hiện nay nhiều vùng người Thái đang hình thành và phát triển các mô hình du lịch cộng đồng, du lịch làng nghề (dệt thổ cẩm) đã mang lại nguồn thu giúp đời sống của người dân dần được nâng cao.

Cơ cấu xã hội cổ truyền của người Thái được tổ chức theo bản mường hay theo chế độ phìa tạo. Chế độ này được hình thành dựa trên các đơn vị tổ chức xã hội gồm bản (làng) và mường (khu vực lớn gồm nhiều bản). Trong đó, bản là đơn vị cơ sở, tương đương với một làng, thường bao gồm các gia đình sống gần nhau và có quan hệ dòng tộc, huyết thống. Mường là một tổ hợp lớn hơn, bao gồm nhiều bản và thường được cai quản bởi một người đứng đầu có quyền lực lớn, được gọi là phìa hoặc tạo mường. Phìa và tạo là những người cai quản, đứng đầu bản mường, có trách nhiệm về các mặt hành chính, kinh tế và quân sự trong khu vực của mình. Chế độ phìa tạo thể hiện một hình thức quyền lực bán tự trị, giúp duy trì sự gắn kết xã hội và bảo vệ lợi ích chung của các bản trong một mường. Thông qua phìa và tạo, người Thái đã duy trì trật tự xã hội, giải quyết các tranh chấp, quản lý tài nguyên và tổ chức các lễ hội cộng đồng. Ngày nay, cơ cấu truyền thống này đã có nhiều thay đổi theo sự quản lý hành chính của Nhà nước, người Thái sống theo từng bản (làng) với người đứng đầu là trưởng bản – người quản lý các công việc chung của bản.

Gia đình của người Thái theo chế độ phụ hệ, con trai thường được coi là người thừa kế tài sản. Phụ nữ Thái chủ yếu đảm nhận các công việc nội trợ, thêu thùa, dệt vải và chăm sóc con cái. Trong quá khứ, người Thái theo chế độ hôn nhân mua bán và ở rể. Trước đây, họ có tục ở rể trong 8 năm đến 12 năm; đây là thời gian thử thách phẩm giá và mức độ chăm chỉ lao động của chàng rể. Ngày nay, tục ở rể hầu như không còn thấy ở người Thái, thậm chí các đôi vợ chồng trẻ có xu hướng tách ra ở riêng.

Kiến trúc nhà truyền thống của người Thái là nhà sàn, được làm bằng gỗ và tre, mái nhà khum tròn hình mai rùa, hai đầu hồi có khau cút. Mỗi nhà thường có nhiều thế hệ chung sống; vì vậy, nhà sàn cũng là nơi thể hiện sự gắn kết gia đình. Trang phục truyền thống của nam giới Thái gồm quần chân què, cạp lá tọa với áo cánh xẻ ngực có túi ở hai bên vạt gấu. Phụ nữ mặc áo cóm ngắn, ôm sát cơ thể với hàng cúc bướm bằng bạc hoặc nhôm kết hợp với chiếc váy đen dài hình ống. Để tạo điểm nhấn, chị em thường thắt eo bằng dải lụa màu xanh lá cây và đeo dây xà tích bạc ở bên hông. Nói đến nữ phục Thái, cũng không thể không nhắc đến khăn piêu - một phụ trang làm tăng thêm vẻ đẹp duyên dáng của người phụ nữ. Ngày nay, trong sinh hoạt hằng ngày, người Thái chủ yếu ăn gạo tẻ nhưng một số gia đình vẫn có thói quen ăn gạo nếp đồ thành xôi theo tập quán truyền thống của họ. Các món ăn thường được chế biến bằng cách nướng hoặc đồ.

Người Thái thờ cúng tổ tiên và có niềm tin mạnh mẽ vào thế giới tâm linh. Họ tin vào sự tồn tại của các vị thần cai quản tự nhiên như thần sông, thần rừng. Các nghi lễ cúng tế là một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của họ.

Văn hóa Thái có ảnh hưởng khá sâu sắc đến một số dân tộc khác trong vùng như Khơ-mú, Kháng, Ơ-đu... thông qua sự giao thoa văn hóa trong đời sống hằng ngày. Phong tục tập quán, nhà ở, trang phục và tín ngưỡng của người Thái đã lan tỏa và ảnh hưởng mạnh đến các dân tộc lân cận theo những cách riêng biệt.

Trang phục truyền thống của phụ nữ Thái (nhóm Tày Thanh)
ở bản Na, xã Hữu Lập huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An, 2023.
nh: Đinh Thu Hương

Tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, trưng bày về dân tộc Thái được thể hiện tập trung trong ngôi nhà sàn của người Thái Đen, dựng tại tầng 2 của tòa nhà Trống đồng. Văn hóa và cuộc sống của họ được giới thiệu thông qua hệ thống hiện vật, ảnh thực địa và các bài viết, được diễn giải bằng ba ngôn ngữ (Việt, Pháp và Anh); ngoài ra, còn có các mô hình nhà ở thu nhỏ và phim tư liệu dân tộc học.

                                                     Người viết: Võ Thị Mai Phương